Các dạng gia đình ở Nhật Bản
Cũng giống ở Việt Nam thì Nhật Bản cũng có 2 dạng gia đình là gia đình lớn và gia đình nhỏ, tuy nhiên các gia đình ở Nhật khác khá nhiều chúng ta. Cùng tìm hiểu nhé?

1. Gia đình lớn
Gia đình lớn (hay gia đình mở rộng, gia đình không phân chia) là những gia đình gồm những người ruột thịt vài thế hệ sống chung dưới một mái nhà, thường từ ba thế hệ trở lên hoặc hai cặp vợ chồng. Ba thế hệ ở đây thường được nói tới đó là ông bà, bố mẹ và con cái. Hơn nữa, gia đình lớn còn được coi là gia đình truyền thống liên quan tới dạng gia đình trong quá khứ. Trước thời Hiện đại (1945 - nay), gia đình lớn (Ie) ở Nhật Bản còn được hiểu là tổ tiên và các thế hệ. Trong khuôn khổ xã hội truyền thống "phần lớn người Nhật sống trong những đại gia đình gồm ba hoặc bốn thế hệ. Các quan hệ gia đình bị chế độ thứ bậc cứng nhắc chi phối và cha mẹ có quyền rất lớn. Theo đó, người cha có quyền đòi hỏi các con mình phải tôn trọng và vâng lời, về phần họ cũng kính trọng và vâng lời cha mẹ của họ. Người phụ nữ có chồng cần tuyệt đối vâng lời chồng và bố mẹ chồng. Nhìn chung, mỗi thành viên trong gia đình, tùy theo tuổi tác và giới tính, có một vị trí nhất định cũng như trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ gia đình. Các thành viên trong gia đình phải đặt nhu cầu của gia đình lên trên lợi ích, mong muốn cá nhân, đóng góp sức lao động và cùng chia sẻ những thành quả thu được. Tóm lại gia đình truyền thống là một hình mẫu gia trưởng với nhiều thế hệ cùng chung sống trong một ngôi nhà và mối quan hệ, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người cùng huyết thống. Tuy vậy, từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, quá trình dân chủ hóa đã làm thay đổi mọi khía cạnh của đời sống gia đình Nhật Bản. Luật Dân sự (sửa đổi) năm 1947, cho phép nữ giới được hưởng quyền hợp pháp bình đẳng với nam giới trong mọi mặt của cuộc sống, qua đó, đã loại bỏ được tính chất gia trưởng cũ của gia đình lớn. Một nguyên nhân quan trọng khác, đó là quá trình đô thị hóa và sự phát triển khoa học, công nghệ trong thời gian nhiều thập kỷ (từ 1945 - nay) đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống gia đình. Sự gia tăng dân số nhanh chóng tại các đô thị lớn khiến cho mô hình gia đình lớn ngày càng suy giảm đến mức đã có nhận định rằng "dòng người rời bỏ nông thôn ra thành phố đã làm cho mô hình gia đình lớn tan rã, thay thế bằng gia đình hạt nhân".
Trên thực tế, gia đình lớn chưa mất hẳn mà chỉ giảm theo thời gian từ chỗ "chiếm 44% tổng số các gia đình vào năm 1955 nhưng tỷ lệ đã giảm liên tục còn 19% vào năm 1970, 16,2% năm 1980 và 13,7% năm 1991". Với đà suy giảm như vậy, cho đến nay, gia đình lớn chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, nhất là ở các đô thị lớn, hầu như "không còn gia đình mở rộng".
. Rõ ràng, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Nhật Bản dẫn tới dạng gia đình lớn tỏ ra không thích hợp, ngày càng teo lại nhường chỗ cho những gia đình hạt nhân. Đến một thời điểm nào đó, gia đình lớn có thể mất đi ở các đô thị lớn song dòng họ tồn tại mãi cho nên tư tưởng “Ie” có thể vẫn duy trì với những mối quan hệ mật thiết, tương tự lẫn nhau giữa các thế hệ. Tuy nhiên, trên thực tế, Ie đã biến đổi nhiều, khi mà quyền lực tuyệt đối của người chủ nhà không còn nữa. Bên cạnh đó, ngày nay, con cái được tự do lựa chọn nghề nghiệp tương lai của mình và việc kế nghiệp gia đình của người con trai cả không còn quan trọng như trước nữa.
Trái ngược với sự suy giảm về dạng thức gia đình lớn, ở các đô thị lớn còn hình thành "hiện tượng" hộ gia đình độc thân và gia đình không có con cái. Có khá nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên song chủ yếu là do quan niệm về hôn nhân thay đổi, già hóa dân số. Ở tại các đô thị lớn, quan điểm "không cần hôn nhân" ngày càng gia tăng ở cả hai giới, song đáng ngạc nhiên là nữ cao hơn nam, thế hệ trẻ nhiều hơn lớp người có tuổi. Cùng với đó, tư tưởng "không sinh con" đã gia tăng liên tục từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay. Già hóa dân số và tỷ lệ sinh giảm cùng với xu hướng ở vậy suốt đời ngày càng tạo thành những hộ độc thân, gia đình không có con cái, trong đó "các hộ độc thân, hộ gia đình chỉ có hai vợ chồng chiếm tới hơn 1/2 là hộ có người già. Tỷ lệ hộ độc thân với nữ giới từ 80 đến 84 tuổi là nhiều nhất". Theo kết quả điều tra tại các đô thị lớn cho thấy "năm 1990 số hộ độc thân chiếm gần 20% tổng số hộ và tăng lên 27,6% năm 2000 (12.911.000 hộ độc thân/ tổng số 46.782.000 hộ, số hộ gia đình độc thân tăng rất nhanh từ 11.239.000 hộ năm 1995 lên 12.911.000 hộ năm 2000". Ngoài qui mô gia đình giảm thì ngược lại tỷ lệ số hộ gia đình độc thân tăng cao còn vì nguyên nhân lớp trẻ không lập gia đình ngày càng nhiều, họ giành thời gian cho học tập, công việc với mong muốn thăng tiến trong xã hội tại môi trường đô thị cạnh tranh gay gắt. Một nguyên nhân khác cũng cần phải kể đến đó là do tỷ lệ ly hôn ở các đô thị lớn tại Nhật Bản ngày càng tăng khiến cho hộ gia đình độc thân và không con cái càng nhiều hơn. Về khía cạnh kinh tế, do chi phí nuôi con đắt đỏ, cho giáo dục, cho ra ở riêng quá cao đã trở thành rào cản lớn đối với việc lập gia đình và sinh con. Với nữ giới, nhiều người đi làm vẫn phải gánh vác đầy đủ trách nhiệm ở công ty và gia đình khiến cho họ cảm thấy quá mệt mỏi, không muốn lấy chồng và sinh con. Như vậy, các nguyên nhân trên giải thích khá tường tận trước hiện tượng gia đình độc thân, gia đình không có con, trở thành xu hướng ngày càng gia tăng tại các đô thị lớn ở Nhật Bản.
2. Gia đình nhỏ
Gia đình nhỏ (hay gia đình hạt nhân, gia đình hai thế hệ) là dạng thức gia đình gồm một vợ một chồng, vợ chồng và con cái do chính họ sinh ra. Gia đình nhỏ ngày càng phổ biến và phát triển mạnh trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở xã hội hiện đại. Bên cạnh gia đình nhỏ đầy đủ còn có dạng thức khá đặc biệt đó là gia đình nhỏ khiếm khuyết. Dạng gia đình này chỉ có mẹ hoặc cha cùng con cái hoặc cha mẹ già và con đã trưởng thành. Ở trường hợp thứ nhất xảy ra khi vợ chồng ly hôn, gặp tai nạn (lao động, giao thông, mất sớm...); trường hợp thứ hai do người con đã trưởng thành không muốn lập gia đình mà ở vậy.
Trên thực tế, các kết quả điều tra về gia đình nhỏ ở Nhật Bản nói chung, các đô thị lớn nói riêng có sự khác biệt. Có số liệu ghi "năm 2000 số hộ gia đình hạt nhân là 27 triệu 332 ngàn, chiếm 88,43% tổng số hộ gia đình ở Nhật Bản năm đó". Số liệu khác cho rằng "các gia đình hạt nhân đã tăng lên tới 59,6% tổng số các gia đình vào năm 1991". Thậm chí, thống kê khác đưa con số lớn hơn nhiều "năm 1985, các gia đình hạt nhân đã chiếm 62,5% tổng số hộ gia đình cả nước". Tuy nhiên, qua các con số có điểm chung, đó là số lượng gia đình nhỏ ở các đô thị lớn tăng nhanh chóng và hiện nay con số đó tất phải thay đổi nhiều. Hơn nữa, quá trình gia tăng các gia đình nhỏ cũng đồng thời kéo theo sự gia tăng của dạng gia đình nhỏ khiếm khuyết. Tình trạng ly hôn gia tăng trong xã hội Nhật Bản, nhất là ở các đô thị lớn, là một nguyên nhân không nhỏ dẫn đến sự xuất hiện ngày càng nhiều gia đình nhỏ khiếm khuyết chỉ có cha và con cái hoặc chỉ có mẹ và con cái. Hiện nay, gia đình khiếm khuyết ở các đô thị lớn nhiều gấp 2 lần so với tỷ lệ trung bình là 2,5% gia đình nhỏ khiếm khuyết trong tổng số các gia đình ở Nhật Bản (năm 1990). Nhìn chung, sự gia tăng của các dạng thức gia đình nhỏ khiếm khuyết ở các đô thị lớn thật sự rất đáng lưu ý song vẫn là thứ yếu bởi kết cấu hai thế hệ (cha mẹ và con cái) mới chiếm vị trí chủ đạo trong hệ thống gia đình hiện đại.